Hình thành Kế hoạch Staley–Taylor

Thời điểm thập niên 1960, Hoa Kỳ thực hiện chính sách "phản ứng linh hoạt", không gây chiến với Liên Xôhệ thống xã hội chủ nghĩa nhưng dùng chiến tranh dưới mức thông thường đối phó với xu hướng đòi độc lập mang màu sắc cộng sản chủ nghĩa ở các nước mới giành độc lập.

Có một quan niệm mới đang hình thành ở Mỹ lúc ấy là phải nhìn nhận miền Nam Việt Nam như là một trọng điểm của toàn bộ quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á. Chính vì thế trong năm 1961, các phái đoàn nghiên cứu của Mỹ tới tấp bay sang Nam Việt Nam: Phái đoàn của phó tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã đến Sài Gòn tháng 5 năm 1961, phái đoàn của tiến sĩ kinh tế Eugene Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford đến Sài Gòn tháng 6 năm 1961, phái đoàn của Maxwell D. Taylor và Walt Whitman Rostow trong Bộ quốc phòng Mỹ đến Nam Việt Nam tháng 10 năm 1961,... Kết quả miền Nam Việt Nam sẽ là nơi thí điểm điển hình loại chiến tranh của chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" vừa ra đời[2].

Kế hoạch Staley-Taylor được đưa ra tháng 5 năm 1961 gồm 3 giai đoạn:

  • Giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp Ấp chiến lược.
  • Giai đoạn 2 thực hiện từ đầu năm 1963, khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định.
  • Giai đoạn 3 thực hiện đến cuối năm 1965, phát triển kinh tế, ổn định miền Nam và kết thúc chiến tranh.

Kế hoạch được mở đầu và có ý nghĩa quyết định là ở giai đoạn 1 với hai biện pháp chiến lược là:

  1. Tăng nhanh lực lượng và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân lực Việt Nam Cộng hòa là xương sống của cuộc chiến tranh theo công thức: Quân đội Sài Gòn+ vũ khí trang bị của Mỹ + cố vấn Mỹ.
  2. Thực hiện cho được quốc sách Ấp chiến lược. Đó vừa là mục tiêu cơ bản, biện pháp chiến lược, vừa là kế sách trước mắt và lâu dài để giành thắng lợi trong chiến tranh ở Việt Nam[2].

Nội dung của kế hoạch là bình định tình hình Miền Nam sau sự kiện đồng khởi trong vòng 18 tháng. Quân đội Việt Nam Cộng hòa dưới sự giúp đỡ của cố vấn quân sự Mỹ, viện trợ vũ khí của Hoa Kỳ và hỏa lực quân đội Hoa Kỳ sẽ đảm đương vai trò kiểm soát Miền Nam Việt Nam. Các ấp chiến lược được dựng để quản lý dân chúng, không cho họ tiếp xúc với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, từ đó bứt quân Giải phóng ra khỏi gốc rễ của họ là quần chúng nhân dân.

Ngày 18-10-1961, Chính phủ Mỹ cử Taylor và Rostaw, hai thành viên Hội đồng an ninh quốc gia, dẫn đầu một phái đoàn gồm các chuyên gia về quân sự, dân sự sang miền Nam Việt Nam để nghiên cứu, đánh giá lại tình hình cụ thể và kết luận tại chỗ, đề ra các phương án đối phó. Phái đoàn này đề ra ba phương án hành động của Mỹ như sau:

1. Đưa vào miền Nam Việt Nam ba sư đoàn quân Mỹ để "đánh bại Việt cộng".

2. Đưa tượng trưng một số quân chiến đấu Mỹ "cốt nhằm mục đích xác lập sự có mặt của Mỹ ở Nam Việt Nam" để nâng đỡ tinh thần quân đội và chính quyền Sài Gòn đang sa sút mạnh và cũng để tạo điều kiện cho việc tăng viện quân Mỹ khi cần.

3. Tăng thêm viện trợ, vũ khí, trang bị chiến tranh và đẩy mạnh công tác huấn luyện cho lực lượng vũ trang Sài Gòn để nâng cao sức chiến đấu của nó.

Ngày 3-11-1961, phái đoàn Taylor gửi về Wasington bản báo cáo nói trên, trong đó, kiến nghị một loạt các biện pháp cấp bách đề cứu vãn tình hình:

- Cử các cố vấn hành chính sang tham gia vào bộ máy chính quyền Sài Gòn để tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm cải thiện mạng lưới tình báo quân sự, chính trị trong chính quyền và quân đội này.

- Mở cuộc điều tra rộng lớn ở các tỉnh trên khắp miền Nam để lượng định các nhân tố xã hội, chính trị, kinh tế, tình báo, quân sự, tâm lý... có liên quan tới "công tác chống nổi loạn" để có thêm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp hiệu quả hơn.

- Tăng cường viện trợ, vũ khí, trang bị và huấn luyện cho lực lượng bảo an, dân vệ để lực lượng này đủ sức thay thế các đơn vị chính quy làm nhiệm vụ "diện địa" (giữ đất), tạo điều kiện cho các đơn vị chính quy đẩy mạnh các cuộc hành quân cơ động, có tính tiến công.

- Giúp đỡ chính phủ Sài Gòn giám sát và kiểm soát vùng biển và các đường thuỷ nội địa bằng cách cung cấp cố vấn, nhân viên điều hành và phương tiện cần thiết cho nhiệm vụ này.

- Tổ chức lại và tăng biên chế phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ.

- Đưa vào miền Nam Việt Nam một lực lượng quân sự đặc nhiệm gồm 6.000 đến 8.000 quân Mỹ để tạo ra sự có mặt về quân sự, hỗ trợ cho các hoạt động quân sự và khi cần, có thể mở các cuộc hành quân mang tính chất tiến công. Ngoài ra, lực lượng đặc nhiệm này còn đóng vai trò "như một bộ phận đi trước của lực lượng Mỹ sẽ được đưa vào nếu như dùng đến các kế hoạch khẩn cấp của Tổng tư lệnh Thái Bình Dương hoặc của khối SEATO"1.

- Tăng thêm viện trợ để hỗ trợ thích đáng chương trình "chống nổi loạn mở rộng".

Ngoài những biện pháp chung trên đây, phái đoàn Taylor còn kiến nghị một "Chương trình tham gia có giới hạn" của Mỹ trong lĩnh vực quân sự; cử sang Nam Việt Nam các cố vấn cấp cao tham gia vào các cơ quan chính phủ và các bộ chủ chốt; thành lập ban thanh tra quân sự hỗn hợp từ trung ương xuống quân khu và các tỉnh; tăng cường một cách cơ bản nhân viên huấn luyện Mỹ ở mọi cấp và trên mọi lĩnh vực quân sự, hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội; triển khai vào Nam Việt Nam các đơn vị công binh, hậu cần, máy bay lên thẳng nằm trong khuôn khổ lực lượng quân sự đặc nhiệm Mỹ đã được đề nghị trước đây; đưa. thêm các đội lực lượng đặc biệt Mỹ để cùng lực lượng đặc biệt Sài Gòn tăng cường cho vùng biên giới; đẩy mạnh các hoạt động tiến công bí mật ra miền Bắc Việt Nam và Lào, kể cả những hoạt động biệt kích bằng không quân, nếu tình hình Nam Việt Nam tiếp tục xấu đi, Mỹ sẽ ném bom miền Bắc để gây áp lực.

Để thực hiện "Chương trình tham gia có giới hạn", phái đoàn Taylor cho rằng, cần có sự thay đổi trong quy chế tinh thần và tổ chức của Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự ở Nam Việt Nam. "Phái đoàn này cần phải được chuyển từ một tổ chức cố vấn thành một cái gì gần giống - tuy chưa hoàn toàn - một sở chỉ huy tác chiến tại một nơi có chiến tranh...". Hơn thế nữa, để giành thắng lợi, "Mỹ phải trở thành một người tham gia có giới hạn vào cuộc chiến tranh, một mặt phải tránh câu nệ, nghi thức trong việc cố vấn; mặt khác phải tránh tự mình tiến hành chiến tranh".